Đặc điểm và tính chất hóa lý của các loại dầu hiện có trong tỉnh

Đặc điểm và tính chất hóa lý của các loại dầu hiện có trong tỉnh- sự cố tràn dầu tỉnh Tiền Giang:

Đánh giá nguồn tiềm ẩn nguy cơ tràn dầu của tỉnh

Đặc điểm và tính chất hóa lý của các loại dầu hiện có trong tỉnh

  1. Dầu Diesel (DO)

Là một loại nhiên liệu lỏng, sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ có thành phần chưng cất từ giữa dầu hoả (Kerosene) và dầu bôi trơn (lubricating oil). Chúng thường có nhiệt độ bốc hơi từ 175 đến 370ºC. Các nhiên liệu Diesel nặng hơn, với nhiệt độ bốc hơi 315 đến 425ºC.

2. Dầu nhiên liệu (FO)

Có hai loại chính

– Dầu FO nhẹ có độ sôi 200-300ºC, tỷ trọng 0.88-0.92.

– Dầu FO nặng có độ sôi lớn hơn 320ºC và tỷ trọng 0.92 – 1.0 hoặc cao hơn.

Tỷ trọng dầu ngoài phụ thuộc vào nhiệt độ còn phụ thuộc vào thành phần chất, độ nhớt, nguồn gốc địa lý…Trung bình ở khoảng 0,9, nhẹ hơn nước.

Độ nhớt của FO rất cao và thay đổi trong phạm vi rộng từ 250 – 7.000 đơn vị Red-Wood chuẩn.

Dầu FO có thể đem chưng cất trong chân không để cho ra dầu bôi trơn, sáp hay nhựa đường và dầu DO, tùy theo loại dầu thô ban đầu.

3. Dầu hỏa

Là hỗn hợp của các hydrocacbon lỏng, không màu, dễ bắt cháy. Nó thu được từ quá trình chưng cất phân đoạn dầu thô, có tỷ trọng khoảng 0.78 – 0.83, nhiệt độ sôi từ 160 – 280ºC. Chủ yếu được sử dụng để thắp sáng và đun nấu. Ngoài ra, dầu hoả còn được sử dụng làm dung môi, để đốt lò trong công nghiệp. Hiện nay, được sử dụng chủ yếu làm nhiên liệu cho máy bay phản lực.

4. Xăng

Là hỗn hợp phức tạp của các hydrocacbon nhẹ, nhiệt sôi trong khoảng 30-250ºC. Xăng được sản xuất chủ yếu từ dầu mỏ, condensate, than đá, đá phiến nhiên liệu. Xăng chủ yếu được dùng làm nhiên liệu trong động cơ chế hòa khí có bộ đánh lửa và dùng làm dung môi công nghiệp.

5. Dầu thô

Mỗi loại dầu thô đều có các đặc tính riêng của nó, trong đó sự khác biệt chủ yếu là về thành phần hydrocacbon, các phân tử lớn bao gồm N, O và S. Hàm lượng nhựa, tính chất keo và đàn hồi khác nhau cũng cho chất lượng dầu thô khác nhau.

Thường dầu thô được chia thành các loại: dầu nhẹ, trung bình và nặng. Sự phân loại này thường đề cập đến yếu tố bay hơi, không quan tâm đến khả năng phân tán và sự chuyển thể sang dạng nhũ tương hay mức độ hòa tan trong nước.

Dầu thô Việt Nam có nhiệt độ chảy cao (khoảng 30ºC) và hàm lượng sáp (paraphin) cũng cao nên khi tiếp xúc với môi trường biển có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ chảy dầu dễ có khuynh hướng đông rắn lại. Điều này làm cho quá trình lan truyền dầu chậm hơn, nhưng đồng thời cũng cản trở với việc sử dụng chất phân tán.

6. Dầu thải sau sử dụng

Dầu thải là dầu sau khi sử dụng xong được thải bỏ, là chất nhờn có màu đen, quánh lại, không hoà tan trong nước, bền vững và có chứa các chất hóa học độc hại và các kim loại nặng, nó phân hủy rất chậm. Trong suốt quá trình sử dụng dầu, chúng có thể bị nhiễm bụi, kim loại nặng nguy chứa những chất hóa học độc hại do quá trình cacbon hoá xảy ra trong lúc sử dụng, đó là nước, nhiên liệu đốt cháy chưa hết và các sản phẩm oxy hóa dầu sinh ra trong quá trình độn cơ làm việc và thu hồi… Tất cả chúng bị lơ lửng trong dầu tạo ra axit, nhựa, cặn bùn khiến cho độ nhớt thay đổi mạnh, nhiệt độ bắt cháy hạ thấp, trị số axit, hàm lượng chất cơ học, hàm lượng nước tăng cao.

Mong rằng sự tư vấn của bộ phận tư vấn an toàn sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của mình. Vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900 0340 để nhận được ý kiến tư vấn chính xác nhất.

Nếu quý vị cần thêm thông tin thì vui lòng liên hệ Trung tâm ứng phó sự cố an toàn môi trường

Hotline: 1900 0340   |  Tel: 0903 063 599 (Ms Vân)

Email: trungtam@ungphosuco.vn

Các khóa học cấp chứng chỉ và tập huấn an toàn lao động

090306 3599