Nguồn và tính chất nước thải của từng loại hình cơ sở y tế- Hướng dẫn áp dụng công nghệ xử lý nước thải y tế:
Nước thải y tế- Nước thải y tế và công nghệ xử lý nước thải y tế tại Việt Nam
Đặc điểm của nước thải y tế
Nguồn và tính chất nước thải của từng loại hình cơ sở y tế
a. Nguồn và tính chất nước thải của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
Nước thải từ các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phát sinh chủ yếu từ: các khoa lâm sàng; các khoa cận lâm sàng; khu vực văn phòng; nhà bếp,… Tuy nhiên, lượng phát thải tại các khu vực này là khác nhau. Thông thường lượng nước thải phát sinh lớn nhất là tại khu vực điều trị nội trú bao gồm nước thải tắm giặt, vệ sinh, tiếp đến là khu vực phòng khám, phòng thí nghiệm, phòng mổ và khu vực văn phòng.
Theo báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học Bộ Xây dựng “Xây dựng TCVN: Trạm xử lý nước thải bệnh viện – Các yêu cầu kỹ thuật để thiết kế và quản lý vận hành”. Hà Nội, 2008 đã chỉ ra hàm lượng chất rắn lơ lửng của nước thải bệnh viện từ 75 đến 250 mg/l. Đồng thời theo số liệu tại báo cáo khảo sát của Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường tại nhiệm vụ “Nghiên cứu đề xuất giải pháp xử lý CTBV đạt tiêu chuẩn môi trường” Hà Nội, năm 2004, chỉ số BOD5 từ 120 đến 200 mg/l, COD từ 150 đến 250 mg/l.
Có thể liệt kê các yếu tố nguy hại có trong nước thải bệnh viện từ các khoa, phòng khác nhau như sau:
– Các hóa chất liên quan đến tráng rửa phim (chất hiện hình và chất ổn định) có nguồn gốc từ phòng chiếu chụp X-quang. Các hóa chất độc hại từ phòng này có thể đi vào nước thải qua quá trình tráng rửa. Tuy nhiên, hiện nay khả năng hóa chất phát sinh tại phòng này rất hạn chế do các bệnh viện đã áp dụng công nghệ kỹ thuật số trong việc chụp X-quang hoặc việc xử lý chất thải phóng xạ được kiểm tra và giám sát chặt chẽ.
– Khu vực Nha khoa là nơi có khả năng phát sinh thủy ngân (Hg) vào nước thải cao khi hỗn hống thủy ngân được sử dụng trong hàn răng không được tách loại bằng thiết bị tách đặt phía dưới bồn rửa. Khoa chống nhiễm khuẩn là nơi sử dụng lượng chất khử trùng nhiều nhất. Trong đó chất khử trùng dạng aldehyde được sử dụng phổ biến làm gia tăng mức độ ô nhiễm trong nước thải. Nhà bếp trong bệnh viện thường phát thải lượng hữu cơ cao, dầu mỡ động thực vật liên quan đến các khâu chế biến thức ăn vào trong nước thải. Khu vực giặt là làm cho nước thải có độ pH tăng cao, tăng hàm lượng phốt phát và đặc biệt là các hợp chất chứa clo có nguồn gốc từ chất khử trùng được sử dụng. Ở khu vực điều trị, lượng kháng sinh, chất khử trùng (glutaraldehyde) làm cho nước thải ô nhiễm hơn. Đồng thời, lượng ô nhiễm hữu cơ tăng cao khi tiếp nhận dịch rửa từ cơ thể của người bệnh. Phòng thí nghiệm là nguồn phát sinh nước thải có chứa hóa chất, hóa chất thường được sử dụng là các chất halogen, dung môi hữu cơ, tế bào (nhuộm Gram), formaldehyde,…
Ngoài các thông số ô nhiễm trên, nước thải từ các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh còn chứa nhiều rác trong quá trình hoạt động của các khoa, phòng, sinh hoạt của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.
b. Nguồn và tính chất nước thải của các cơ sở y tế dự phòng, nghiên cứu đào tạo y – dược và các cơ sở sản xuất thuốc
Các nguồn nước thải phát sinh từ hoạt động chuyên môn của các cơ sở y tế thuộc nhóm này chủ yếu là nước thải từ quá trình thí nghiệm, sản xuất thuốc, tiêm phòng,… Do đó, ngoài những thông số ô nhiễm trong nước thải như: COD, BOD5, H2S, tổng phốt pho, tổng nitơ, SS, DO, vi sinh vật,… nước thải của các cơ sở y tế thuộc nhóm này còn chứa nhiều hóa chất, dư lượng kháng sinh được sử dụng trong sản xuất thuốc. Các chất ô nhiễm này thường theo con đường tráng rửa dụng cụ và đi vào nước thải, tạo nên tính chất ô nhiễm đặc trưng cho nước thải của loại hình cơ sở y tế này.
Nước thải thường có độ pH thấp, thấp nhất là tại các cơ sở sản xuất thuốc nếu sử dụng các hoạt chất có tính kháng sinh trong sản xuất, lượng dư kháng sinh thường làm cho giá trị pH giảm xuống. Tiếp đến là các cơ sở nghiên cứu y-dược và cuối cùng là các trung tâm y tế dự phòng. Về các chỉ tiêu ô nhiễm như: COD, BOD5, H2S, tổng phốt pho, tổng nitơ, SS, DO,… không có sự khác biệt rõ rệt trong ba loại hình cơ sở y tế này (y tế dự phòng; nghiên cứu y-dược; sản xuất thuốc) thể tích nước thải phát sinh tùy theo chức năng, nhiệm vụ nhưng thường không nhiều.
Lượng rác có trong nước thải của các cơ sở y tế thuộc nhóm này không cao do không điều trị nội trú nên hạn chế việc sinh hoạt ăn uống. Đồng thời, chỉ tiêu ô nhiễm dầu mỡ trong nước thải của loại hình cơ sở y tế thuộc nhóm này cũng thấp.
Riêng đối với cơ sở đào tạo y-dược có bệnh viện hoặc cơ sở thực hành có giường bệnh thì nước thải có tính chất, đặc điểm ô nhiễm tương tự như cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cần được xử lý như nước thải bệnh viện.
c. Nguồn và tính chất nước thải các trạm y tế xã, phường, thị trấn
Trạm y tế xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Trạm y tế xã) và các phòng khám tư nhân thường không có bệnh nhân điều trị nội trú. Lượng người đến các trạm y tế xã không nhiều trừ thời gian tiêm chủng. Nước thải phát sinh đối với loại hình cơ sở y tế thuộc nhóm này chủ yếu là loại nước thải sinh hoạt và một lượng nhỏ nước thải phát sinh trong quá trình làm thủ thuật y tế đơn giản. Lượng nước thải phát sinh trung bình khoảng từ 1-2 m3/ngày.đêm. Các chỉ số ô nhiễm như BOD5, COD tương đối thấp, chủ yếu là NH4+ và một số vi sinh vật gây bệnh.
Mong rằng sự tư vấn của bộ phận tư vấn an toàn sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của mình. Vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900 0340 để nhận được ý kiến tư vấn chính xác nhất.
–
Nếu quý vị cần thêm thông tin thì vui lòng liên hệ
TRUNG TÂM ỨNG PHÓ SỰ CỐ AN TOÀN MÔI TRƯỜNG
Số 05B Phổ Quang, Phường 2, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh
0938 040 020 (Ms.Chi) – khanhchi@ungphosuco.vn – 028 7302 2200
Các khóa học cấp chứng chỉ và tập huấn an toàn lao động

