Sự cố Bỏng

Đã có nhiều quan niệm về các thời kỳ của bệnh bỏng, người ta chia làm hai thời kỳ, ba thời kỳ, bốn thời kỳ, năm thời kỳ. Song chia bệnh bỏng làm bốn thời kỳ, được nhiều tác giả chú ý:

1. Thời kỳ thứ nhất: 2 -3 ngày đầu tiên sau bỏng. Đặc trưng là trạng thái sốc bỏng (burn shock)

2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ nhiễm độc, nhiễm khuẩn cấp (acute intoxication and infection): từ ngày thứ 4 – 45 – 60 sau bỏng. Đối với bỏng nông, đây là thời kỳ liền sẹo và khỏi bệnh. Đối với bỏng sâu đây là thời kỳ nhiễm độc, nhiễm trùng.

3. Thời kỳ thứ ba: đây là thời kỳ suy mòn bỏng (burn cachexia) (từ ngày thứ 45 – 60 trở đi), nếu không được điều trị và nuôi dưỡng tốt. Có thể chia làm  ba mức độ suy mòn bỏng: Nhẹ, vừa, nặng.

  • Nhẹ: tổ chức hạt phù nề, gầy sút khoảng 4–9 kg, hồng cầu 3,8 – 2.5 T/lít, huyết sắc tố tới 55 G/lít, hematocrit tới 29%, protein huyết tương 7,5 – 5,5 g%, tỉ lệ albumin huyết tương tới 38%.
  • Vừa: tổ chức hạt xuất huyết, gầy sút khoảng 10 – 19 kg, teo cơ, phù dưới da, có các vết loét dưới điểm tỳ, hồng cầu 3,1 – 2.7 T/lít, huyết sắc tố tới 40 G/lít, hematocrit tới 22%, protein huyết tương 6,8 – 4,0 g%, tỉ lệ albumin huyết tương tới 24%.
  • Nặng: vết thương bỏng không có mô hạt, có hoại tử thứ phát, gầy sút khoảng 20 – 40 kg, teo cơ,phù dưới da, các vết loét dưới điểm tỳ nhiều và tiến triển xấu, hồng cầu 3,6 – 1,0 T/lít, huyết sắc tố tới 29 G/lít, hematocrit tới 13%, protein huyết tương 5,2 g%, tỉ lệ albumin huyết tương tới 11%. Có rối loạn và suy sụp chức phận và teo các nội tạng và tuyến nội tiết, rối loạn tinh thần.

Suy mòn bỏng nhẹ có thể hồi phục nhanh nếu điều trị tốt. Suy mòn bỏng vừa có thể có tử vong do các biến chứng khác của bệnh bỏng. Suy mòn bỏng nặng có tỉ lệ tử vong khoảng 50 – 60 %.

4. Thời kỳ thứ tư: thời kỳ hồi phục của bệnh bỏng (Stage of recovery). Vết thương bỏng đã được phủ kín, liền sẹo. Các rối loạn chức phận của các nội tạng được phục hồi dần dần. Các rối loạn về chuyển hoá, dinh dưỡng cũng được trở về bình thường (thời kỳ này kéo dài từ 1 – 1,5 tháng).

Hiện nay người ta có thể chia bỏng chỉ làm ba thời kỳ, do bệnh nhân được nuôi dưỡng và điều trị tốt không còn thời kỳ suy mòn bỏng.

Phân loại theo độ sâu

Bỏng nông

Đây là loại bỏng nhẹ nhất, thương tổn chủ yếu trên bề mặt da, dễ khỏi và có thể không để lại seo hay vết thâm. Loại này gồm hai cấp độ:

  • Bỏng độ I (viêm da cấp do bỏng: phù nề, sưng, nóng, đỏ, đau), ở lớp nông của thượng bì khô và bong. Bỏng gây do sưng đỏ nề, rát, nhưng sau 2 – 3 ngày thì khỏi và không để lại sẹo. Hay gặp do bỏng nắng, bỏng nước sôi chỗ không có quần áo.
  • Bỏng độ II: thương tổn lớp biểu bì. Trên nền da đỏ, xuất hiện những nốt phỏng nước chứa dịch trong hoặc vàng nhạt, có thể xuất hiện muộn từ 12-24 giờ sau khi bị bỏng. Đáy nốt phỏng màu hồng ánh ướt có thấm dịch xuất tiết, sau 3-4 ngày hiện tượng viêm đỡ. Tại các nốt phỏng dịch còn đọng lại. Vì chưa tới lớp tế bào đáy nên khi khỏi không để lại sẹo. Khỏi sau 10 – 14 ngày. Hay gặp: bỏng nước sôi chỗ có quần áo…
  • Bỏng độ III (Bỏng trung bì). Hoại tử toàn bộ lớp thượng bì, tổn thương phần lớn các thánh phần lớp trung bì, nhưng các thành phần phụ thuộc của da (gốc lông, tuyến mồ hôi, tuyến nhờn), còn nguyên vẹn. Loại này chia thành hai loại:

– Bỏng độ IIIa (nông): Tổn thương thượng bì nhưng ống và gốc lông các tuyến mồ hôi còn nguyên vẹn. Tổn thư­ơng đặc tr­ưng bởi nốt phỏng: hình thành sớm hoặc muộn; vòm dày; đáy màu đỏ, hồng, còn cảm giác đau; dịch nốt phỏng có thể có màu hồng, đục. Tự khỏi bằng hiện tượng biểu mô hóa trong vòng 2 – 4 tuần hay từ khoảng 15 – 30 ngày. – Bỏng độ IIIb (sâu): Chỉ còn lại phần sâu của các tuyến mồ hôi. Tổn thương này có thể có nốt phỏng, vòm dày (tính chất của nốt phỏng độ III), đấy nốt phỏng tím sẫm, trắng bệch, xám, giảm cảm giác đau. Ngoài ra gây Hoại tử: Hay gặp hoại tử ­ướt, màu trắng, phân biệt với bỏng độ IV là: Còn cảm giác đau, da không bị nhăn rúm, không có hình mao mạch huyết tắc. Sau 12-14 ngày rụng hoại tử hình thành mô hạt xen kẽ với các vùng biểu mô – hình ảnh đảo biểu mô. Có thể tự liền bằng hiện tượng tế bào biểu mô phủ kính câc tổ chức hạt sau 30 – 45 ngày, để lại sẹo xấu. Nếu vết bỏng thiểu d­ưỡng, tỳ đè, nhiễm khuẩn…Chuyển hoàn toàn thành bỏng sâu.

Bỏng độ III có khi được gọi là “”bỏng trung gian”” Là loại bỏng nằm giữa giới hạn bỏng nông và bỏng sâu. Bỏng lan tới một phần của lớp tế bào đáy (lớp nông, phần uốn lượn lên xuống). Bỏng loại này tiến triển tốt, nhưng cũng có thể nặng lên và thành bỏng sâu. Thường gặp bỏng nước sôi chỗ có quần áo.

Bỏng sâu

Là mức độ bỏng nặng và rất nặng, tác nhân gây bỏng đã phá huỷ lớp tế bào đáy, để lại phần da bị dúm dó, đa số cần phải lại vá da. Hậu quả rất nặng nề từ sẹo đến phải cắt bỏ phần da, tử vong. Bỏng sâu gồm các cấp độ bỏng IV trở đi.

  • Bỏng độ IV (Bỏng toàn bộ lớp da): Đám da trắng bạch (như thịt luộc), đỏ xám hoặc đá hoa vân. Lớp tế bào đáy bị phá huỷ, bỏng ăn lan tới trung bì, gây hoại tử da diện rộng. Vì mất lớp tế bào sinh sản, da không được bảo vệ, nên bỏng loại này hầu hết bị nhiễm khuẩn. Về lâm sàng loại bỏng này thể hiện dưới 2 hình thức: Đám da hoại tử ướt và đám da hoại tử khô. Thường gặp bỏng do xăng, acid, bỏng điện…
  • Bỏng độ V: tác nhân gây bỏng phá huỷ hết da, bỏng ăn tới tận cơ, xương, cả một vùng của chi bị cháy đen. Về lâm sàng thấy da hoại tử khô nỗi rõ lưới mạch đã bị huyết tân của lớp dưới da, da hoại tử lõm sâu, mất cảm giác hoàn toàn. Thường gặp do điện cao thế, sét đánh, cháy nhà (trong các thảm hoạ cháy nhà cao tầng), cháy ô tô chở khách…).

Phân loại theo diện tích da

Leave a Reply

090306 3599